Những đứa con của nửa đêm
Phan_46
Ngày thứ bốn trăm mười tám tôi ở đây, bầu không khí tại ngôi nhà điên có một thay đổi. Có một người đến ăn tối: một người có cái bụng núng nính, cái đầu thon lại ở đỉnh, phủ những lọn tóc bóng dầu, cái miệng dày thịt như môi âm hộ đàn bà. Tôi nghĩ mình nhận ra hắn qua những bức ảnh trên báo. Quay sang một trong những đứa em không giới tính không tuổi tác không diện mạo, tôi tò mò hỏi, “Này em, có phải Sanjay Gandhi đấy không?” Nhưng sinh vật bị nghiền mịn ấy đã bị hủy diệt triệt để đến mức không còn năng lực trả lời... có phải không nhỉ? Khi ấy, tôi chưa biết điều tôi sắp ghi lại đây: có một số nhân vật cao cấp của cái chính phủ kỳ khôi ấy (và một số con trai không chức danh của thủ tướng) đã có khả năng tự nhân bản... chỉ vài năm sau, hàng đàn hàng lũ Sanjay sẽ lúc nhúc khắp Ấn Độ! Trách nào mà cái vương triều kỳ quái ấy chẳng muốn áp đặt kiểm soát sinh đẻ lên tất cả chúng tôi… có thể như vậy, và cũng có thể không; nhưng ai đó đã biến mất vào thư phòng cùng Mustapha Aziz; và đêm đó - tôi nhìn lén - xuất hiện một cặp tài liệu bìa da đen khóa kín, trên đó chữ TỐI MẬT và KẾ HOẠCH M.C.C.; và sáng hôm sau ánh mắt cậu Mustapha nhìn tôi có chiều khác lạ, với vẻ gần như sợ hãi, hoặc là cái nhìn đặc biệt chán ghét mà giới Công chức dành riêng cho những kẻ bị thất sủng với chính quyền. Đáng lẽ tôi phải biết ngay điều gì đang chờ đợi tôi; song khi hồi cố thì mọi chuyện đều có vẻ đơn giản. Bây giờ hồi cố đến với tôi khi đã quá muộn, khi tôi đã bị đày ra vùng ngoại vi của lịch sử, khi các mối liên hệ giữa vận mệnh của tôi và của đất nước này đã vĩnh viễn bị cắt đứt... để tránh cái nhìn không thể giải thích của cậu tôi, tôi đi ra vườn; và nhìn thấy Parvati-phù-thủy.
Cô ngồi trên vỉa hè với cái giỏ tàng hình đặt bên người; vừa thấy tôi ánh mắt cô liền sáng lên đầy trách cứ. “Cậu bảo sẽ quay lại, nhưng chả thấy đâu, nên tớ,” cô lắp bắp. Tôi cúi gằm mặt. “Tớ bận để tang,” tôi gượng gạo đáp, và cô, “Nhưng lẽ ra cậu vẫn có thể - lạy Chúa, Saleem, cậu không hiểu đâu, ở khu trại tớ không thể thổ lộ với ai về ma thuật thật sự của tớ, không bao giờ, kể cả với Picture Singh người tớ coi như cha, tớ phải nín nhịn và nín nhịn, vì họ không tin vào những điều như thế, và tớ tự nhủ, Có Saleem đây rồi, giờ ít ra mình cũng có một người bạn, chúng mình có thể trò chuyện, có thể ở bên nhau, chúng mình đều đã trải qua, đều đã biết... và, ôi trời, biết nói sao nhỉ, Saleem, cậu chẳng quan tâm, cậu có được cái cậu cần rồi thì cậu bỏ đi thẳng, tớ chẳng là gì với cậu hết, tớ biết...”
Đêm đó mợ Sonia điên khùng của tôi, chỉ còn vài ngày nữa là bị giam trong một chiếc áo tâm thần[13] (chuyện này bị lên báo, một mẩu tin nhỏ ở trang trong; Sở của cậu tôi chắc khá khó chịu), lên một cơn kích động dữ dội của chứng điên trầm trọng và xông vào phòng ngủ mà, nửa giờ trước, một-người-có-đôi-mắt-to-tròn đã trèo vào qua ô cửa sổ ở tầng trệt; bà phát hiện ra tôi trên giường cùng Parvati-phù-thủy, và sau đó cậu Mustapha không còn hứng thú với việc chứa chấp tôi nữa, nói, “Mày là nòi bhangi, mày sẽ là quân đê tiện đến hết đời”; vào ngày thứ bốn trăm hai mươi, tôi rời nhà cậu tôi, bị đoạn tuyệt mọi liên hệ gia đình, rốt cuộc đã trở về với di sản thực sự của nghèo khổ và bần hàn mà tội ác của Mary Pereira lừa mất của tôi đã quá lâu. Parvati-phù-thủy chờ tôi trên vỉa hè; tôi không nói cho cô biết rằng trong chừng mực nào đó tôi mừng vì bị mợ tôi làm gián đoạn, vì khi hôn cô trong bóng tối của cái đêm bất chính ấy, tôi thấy mặt cô biến đổi, trở thành gương mặt của một tình yêu cấm kỵ; những đường nét ma quái của Jamila Ca sĩ đã thay thế nét mặt của cô gái phù thủy; Jamila người đang (tôi biết mà!) an toàn ẩn náu trong tu viện tại Karachi đột nhiên cũng ở đây, có điều em đã trải qua một biến hóa đen tối. Em đã bắt đầu mục rữa, mụn nhọt và lở loét khủng khiếp của tình yêu cấm kỵ đang lan trên mặt em; như có lần hồn ma của Joe D’Cosca đã mục rữa vì bệnh hủi ma quái của cảm giác tội lỗi, giờ đây loài hoa loạn luân ôi rữa đang nở trên bộ mặt hồn ma của em tôi, và tôi không thể làm điều đó, không thể hôn hít vuốt ve nhìn ngắm khuôn mặt quỷ hồn không thể nào chịu nổi này, tôi đang sắp sửa quay ngoắt đi với một tiếng thét của nỗi hổ thẹn và hoài nhớ tuyệt vọng thì Sonia Aziz xông vào cùng ánh đèn điện và rú lên.
[13] Loại áo có tay rất dài, dùng để buộc chéo ra sau lưng nhằm kiềm chế bệnh nhân tâm thần.
Về phần Mustapha, thật ra, tai tiếng của tôi với Parvati, trong mắt ông, chẳng qua chỉ là một cái cớ hữu ích để rũ bỏ tôi; nhưng điều này vẫn là nghi vấn, bởi chiếc cặp màu đen bị khóa tôi chỉ có thể căn cứ vào một ánh nhìn trong mắt ông, một mùi sợ hãi, ba chữ cái đầu trên một cái nhãn - bởi sau này, khi mọi chuyện đã kết thúc, một người đàn bà thất bại và đứa con trai môi-âm-thần đá khóa cửa phòng trong hai ngày đế đốt tài liệu; và làm sao chúng ta biết được trong số đó có-hay-không một hồ sơ dán nhãn M.C.C.?
Dầu sao, tôi cũng chả muốn ở lại. Gia đình: một ý niệm bị phóng đại. Chớ nghĩ tôi buồn! Đừng tưởng dù chỉ một giây rằng cổ họng tôi nghẹn lại khi bị trục xuất khỏi ngôi nhà ơn phước cuối cùng mở cửa đón tôi! Nói thật nhé - tinh thần tôi rất phấn khởi khi ra đi... có thể ở tôi có gì đó không tự nhiên, có chút thiếu hụt căn bản của phản xạ cảm xúc; nhưng tâm trí tôi trước giờ luôn hướng đến những điều cao cả hơn. Cho nên tôi mới bền bỉ. Đánh tôi: tôi bật dậy. (Nhưng phản kháng cũng chẳng ích gì trước những vết nứt).
Tóm lại: vứt bỏ niềm hy vọng ngây thơ trước kia về việc được đề bạt công chức, tôi quay về khu ổ chuột của giới ảo thuật và chaya của Thánh đường Thứ Sáu. Học theo đức Cồ Đàm, Buddha đầu tiên và chân chính, tôi từ bỏ đời nhung lụa làm một kẻ hành khất dấn thân vào cõi thế. Hôm ấy là 23 tháng Hai năm 1973; các mỏ than và thị trường bột mì đang được quốc hữu hóa, giá dầu bắt đầu tăng phi mã, và sẽ gấp bốn sau một năm, và trong đảng Cộng sản Ấn Độ, chia rẽ phe Moscow của Dange và C.P.I.(M.) của Namboodiripad đả trở nên không thể hàn gắn; và tôi, Saleem Sinai, như Ấn Độ, vừa tròn hai mươi lăm tuổi, sáu tháng, tám ngày.
Các ảo thuật gia đều là Cộng sản, hầu như không có ngoại lệ. Cũng xin nói luôn rằng đồng thời với việc khám phá ra điều ấy, tôi, người đã được nuôi dưỡng trong tín ngưỡng chân chính kia của Ấn Độ (mà ta có thể gọi là Thương đạo[14]), người đã ruồng-bỏ-và-bị-ruồng-bỏ-bởi những ai tu tập đạo này, ngay lập tức thấy mình như cá gặp nước. Là phản đồ của Thương đạo, tôi sốt sắng hóa đỏ, đỏ nữa và đỏ mãi, cũng quả quyết và triệt để như có lần cha tôi từng hóa trắng, khiến giờ đây sứ-mệnh-cứu-nước của tôi có thể được nhìn nhận dưới một ánh sáng mới; nhiều phương pháp luận cách mạng đã nảy sinh trong óc tôi. Đả đảo ách thống trị của những lão cậu bán hàng rong bất hợp tác và những lãnh đạo kính yêu của lão! Đầu tràn ngập tư tưởng về đối-thoại-trực-tiếp-với-quần-chúng, tôi định cư ở khu trại của giới ảo thuật, kiếm sống bằng cách mua vui cho khách du lịch ngoại quỗc lẫn bản xứ bằng tuệ nhãn thần diệu của mũi tôi, thứ cho phép tôi ngửi ra những bí mật giản đơn, kiểu du khách của họ. Picture Singh rủ tôi về ở chung lều với anh. Tôi ngủ trên tấm vải bố tả tơi giữa những sọt rắn kêu phì phì; nhưng tôi thấy thoải mái, cũng như tôi thấy mình đủ sức chịu đựng đói rét muỗi và (lúc đầu) cái rét buốt của mùa đông Delhi. Picture Singh, Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian này, đồng thời cũng là thủ lĩnh không tranh cãi của ghetto; mọi khúc mắc và cãi cọ đều được giải quyết dưới bóng cái ô đen khổng lồ không đâu không có mặt của anh; và tôi, người biết đọc biết viết và lại biết ngửi, thành ra một kiểu sĩ quan phụ tá cho người đàn ông đồ sộ này, người bao giờ cũng khuyến mại một bài giảng về chủ nghĩa xã hội kèm theo mỗi màn xiếc rắn, và người nổi tiếng khắp đường to ngõ nhỏ của thành phố này không chỉ về tài dụ rắn. Tôi có thể nói, với niềm tin tuyệt đối, rằng Picture Singh là người đàn ông vĩ đại nhất tôi từng biết.
[14] Thương tức là thương nhân, thương mại; hiểu nôm na là tín ngưỡng của con buôn.
Một buổi chiều, trong giờ chaya, ở ghetto xuất hiện một bản sao khác của gã thanh niên môi-âm-thần mà tôi đã gặp ở nhà cậu Mustapha. Đứng trên bậc thềm thánh đường, hắn giũ một tấm băng rôn cho hai gã phụ tá giăng lên. Trên đó có dòng chữ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO và biểu tượng con-bê-bú-mẹ của đảng Quốc đại của Indira. Mặt hắn trông đặc biệt giống khuôn mặt tròn trịa của một con bê, và khi mở miệng hắn phả ta một cơn lốc thối mồm. “Hỡi các anh chị em! Đảng Quốc đại nói gì với các bạn? Đây: rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng! Hắn không kịp nói gì thêm; đám đông rụt lại trước hơi thở như phân bò dưới nắng gắt của hắn, và Picture Singh bắt đầu cười hô hố. “Ô ha ha, đội trưởng, quá hay!” Và cặp môi-âm-thần, ngu ngốc hỏi: “Ô kê, anh, người anh em, có gì hay thì kể xem nào?” Picture Singh lắc đầu, ôm bụng: “Bài diễn văn, đội trưởng! Diễn văn tuyệt đỉnh!” Tiếng cười của anh từ dưới mái ô lăn ra và nhiễm vào đám đông cho đến khi tất cả chúng tôi đều lăn lộn nên mặt đất, cười sằng sặc, nghiền nát kiến, bụi phủ đầy người, và giọng nói của con bê non[15] Quốc đại la lên thất thanh: “Cái gì thế này? Anh bạn này không cho rằng mọi người đều bình đẳng? Tư tưởng thấp kém quá nhỉ...” nhưng giờ Picture Singh, ô-trên-đầu, đã sải bước về phía lều của anh. Cặp môi-âm-thần thở phào, tiếp tục diễn thuyết... nhưng không được bao lâu, bởi vì Picture đã quay lại, ôm dưới tay trái một cái sọt tròn nhỏ có nắp và cặp dưới nách phải một ống sáo. Anh đặt cái sọt lên bậc thềm dưới chân anh giai Quốc đại; mở nắp; đặt sáo lên môi. Giữa những tràng cười lại rộ lên, gã chính khách trẻ nhảy bắn bốn mươi bảy xăng ti mét lên không khi một con hổ mang chúa ngái ngủ lắc lư ngóc đầu dậy từ cái sọt... Cặp môi-âm-thần rú lên: “Làm cái gì thế hả? Định giết tươi người ta à?” Và Picture Singh, phớt lờ hắn, ô đã xếp gọn lại, tiếp tục chơi, mỗi lúc một bốc hơn, và con rắn duỗi thẳng ra, Picture Singh chơi nhanh nhanh nữa đến khi tiếng sáo đã lan khắp mọi ngóc ngách của khu ổ chuột và đe dọa làm tróc tường thánh đường, và sau cùng con rắn khổng lồ lơ lửng giữa không khí, được nâng đỡ chỉ nhờ ma thuật của tiếng sáo, vươn dài ba thước khỏi cái sọt và nhảy múa bằng cái đuôi... Tiếng sáo dịu đi. Nagaraj[16] thu mình cuộn lại. Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian đưa cây sáo cho gã trai Quốc đại: “Ô kê, đội trưởng,” Picture Singh hòa nhã nói, “cậu thử xem.” Nhưng cặp môi-âm-thần: “Hả, anh thừa biết tôi không làm được!” Picture Singh liền kẹp cổ con hổ mang, há miệng to thật to, phô ra một mớ tàn tích hào hùng của răng và lợi; nháy mắt trái với gã trai Quốc đại, anh đút cái đầu con rắn hổ đang thò thụt lưỡi vào cái động khẩu gớm ghiếc đang ngoác rộng của mình! Đúng một phút trôi qua trước khi Picture Singh trả con hổ mang vào sọt. Hết sức nhẹ nhàng, anh bảo gã trai: “Cậu thấy đấy, đội trưởng, đấy là sự thật của vấn đề: ở đời luôn có kẻ hơn người kém. Nhưng nếu cậu nghĩ ngược lại, chì cũng tốt thôi.”
[15] Ở đây Rushdie chơi chữ: mooncalf trong tiếng Anh nghĩa là thằng ngốc, nhưng về mặt chữ thì nó nghĩa là con bê (calf), có ý mỉa mai Sanjay Gandhi chỉ như một con bê non (logo cũ của đảng Quốc đại thời Indira Gandhi vẽ hình một con bò cái và một con bê).
[16] Rắn chúa (Naga = rắn, Raj(a) = vua).
Chứng kiến cảnh này, Saleem Sinai hiểu ra rằng Picture Singh và các ảo thuật gia là những kẻ nhận thức tuyệt đối chắc chắn về hiện thực; họ nắm bắt nó vững vàng đến nỗi có thể uốn nắn nó ra sao tùy ý để phục vụ nghệ thuật, nhưng không bao giờ quên bản chất của nó.
Vấn đề của ghetto ảo thuật cũng là vấn đề của phong trào Cộng sản Ấn Độ; trong phạm vi khu trại, ta có thể thấy, dưới dạng thu nhỏ, vô số mâu thuẫn và bất đồng đang giày xéo nội bộ đảng này trên cả nước. Picture Singh, tôi phải nói ngay, đứng trên tất cả; là người cha tinh thần của ghetto, anh sở hữu một chiếc ô mà bóng râm của nó có khả năng khôi phục hòa khí giữa các phe phái đang hục hặc; nhưng những mâu thuẫn được đem đến dưới bóng ô của người-dụ-rắn ngày càng gay gắt hơn, bởi trong khi các xảo thuật gia, những người lôi thỏ ra từ mũ, hậu thuẫn đảng C.P.I. chính thống theo đường lối Moscow của Ngài Dange, phe đã ủng hộ bà Gandhi suốt thời kỳ ban bố Tình trạng khẩn cấp, thì các nghệ sĩ uốn dẻo bắt đầu ngả hơn về hệ tư tưởng phức tạp ngày càng thiên tả của phe thân Tàu. Những nghệ sĩ ăn lửa và nuốt kiếm hoan nghênh chiến thuật du kích của phong trào Naxalite; trong khi các nhà thôi miên và đi-trên-than-hồng ủng hộ tuyên ngôn của Namboodiripad (không theo cả Moscow lẫn Bắc Kinh) và căm ghét đường lối bạo động của phái Naxalite[17]. Đã xuất hiện xu hướng Trotskyist trong đám cờ bạc bịp, cũng như một phong trào Cộng-sản-thông-qua-bỏ-phiếu trong các thành viên ôn hòa của phe phúc ngữ. Tôi đã bước vào một môi trường nơi, trong khi mọi định kiến tôn giáo và vùng miền vắng bóng hoàn toàn, bản năng thiên phú xa xưa của đất nước này là chia tách đã tìm thấy nhiều hình thức biểu hiện mới. Picture Singh buồn rầu kể cho tôi rằng hồi tổng tuyển cử năm 1971 đã xảy ra một vụ án mạng kỳ quái nảy sinh từ vụ cãi cọ giữa một người nuốt lửa phái Naxalite và một thuật sĩ phe Moscow, người, sôi máu vì quan điểm của đối thủ, định lôi từ chiếc mũ ma thuật ra một khẩu súng; nhưng món vũ khí chưa kịp rút ra thì người ủng hộ Hồ Chí Minh đã thiêu chết đối thủ bằng cách thổi bùng lên một lưỡi lửa kinh hồn.
[17] Naxalite là từ chỉ những nhóm cộng sản theo đường lối vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích ở Ấn Độ.
Dưới bóng ô của mình, Picture Singh nói về một chủ nghĩa xã hội hoàn toàn không chịu ảnh hưởng nước ngoài. “Nghe này, đội trưởng,” anh bảo các nghệ sĩ phúc ngữ và múa rối, “khi về làng các cậu có mang chuyện mấy ông Stalin với Mao ra nói không? Nông dân Bihar và Tamil thì quan tâm gì việc Trotsky bị giết?” Chaya của chiếc ô ma thuật của anh làm nguội đi những cái đầu nóng nhất trong giới phù thủy; và gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi rằng một ngày rất gần Picture Singh sẽ tiếp bước Mian Abdullah rất nhiều năm trước; và rằng, như con Chim ngân nga huyền thoại, anh sẽ rời ghetto để nhào nặn lịch sử hoàn toàn bằng sức mạnh ý chí của mình; và rằng, không như người anh hùng của ông tôi, không gì có thể ngăn bước anh cho đến khi anh, và lý tưởng của anh, đã giành chiến thắng... nhưng, nhưng. Luôn luôn có nhưng nhưng. Điều gì xảy ra, sẽ xảy ra. Chúng ta đều biết vậy.
Trước khi quay lại với câu chuyện đời tư của mình, tôi muốn tất cả biết rằng chính Picture Singh là người hé lộ cho tôi rằng nền kinh tế “đen”, đồi bại của đất nước này đã tăng trưởng ngang bằng với trạng thái “trắng” và chính thống của nó, bằng cách cho tôi xem một bức ảnh đăng báo của Bà Gandhi. Mái tóc bà ta, rẽ ngôi giữa, bên trắng như tuyết và bên đennhưđêm, thành thử, tùy vào diện mạo bà ta muốn phô diễn, bà ta sẽ giống một con ermine hoặc một con chồn đuôi ngắn[18]. Sự tái hiện của ngôi giữa trong lịch sử; đồng thời, nền kinh tế phản ánh kiểu tóc của Thủ tướng... Những nhận thức quan trọng này đều nhờ Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian truyền đạt cho tôi. Picture Singh chính là người bảo tôi rằng Mishra, Bộ trưởng Đường sắt, cũng chính là bộ trưởng được chính thức bổ nhiệm của ngành hối lộ, đầu mối phê duyệt những áp phe lớn nhất của nền kinh tế đen, và người môi giới việc đút lót các bộ trưởng và quan chức hữu quan; không nhờ Picture Singh, tôi chắc chẳng bao giờ biết đến việc dàn xếp kết quả trong các kỳ bầu cử cấp bang ở Kashmir. Tuy vậy, anh cũng chẳng phải người say mê dân chủ: “Quỷ tha ma bắt trò bầu cử này đi, đội trưởng,” anh bảo tôi, “Mỗi lần như thế, những chuyện tồi tệ lại xảy ra; dân mình lại xử sự như một lũ hề.” Tôi, mê man trong cơn-sốt-làm-cách-mạng, không thể phản bác lại thầy.
[8] Ermine chính là chồn đuôi ngắn. Loài chồn này lưng xám bụng trắng, nếu nó đi bằng bốn chân, ta chỉ thấy nó màu xám, còn khi nó đứng bằng hai chân sau thì (khi nhìn từ phiá trước) ta sẽ thấy nó trắng hoàn toàn.
Quy củ ở ghetto, tất nhiên, cũng có vài ngoại lệ: một hai ảo thuật gia vẫn theo tín ngưỡng Hindu và, về mặt chính trị, ủng hộ đảng Jana Sangh hệ phái Hindu của những kẻ cực đoan tai tiếng theo chủ thuyết Ananda Marga[19]; có cả cử tri Swatantra[20] trong số những người tung hứng. Bỏ qua vấn đề chính trị, bà lão Resham Bibi là một trong ít cư dân của cộng đồng này vẫn là một kẻ hoang tưởng vô phương cứu chữa, vẫn mê tín (chẳng hạn) rằng đàn bà cấm được trèo dừa, bởi cây dừa nào đã chịu sức nặng của đàn bà thì mãi mãi sẽ đậu quả chua... và có một fakir kỳ lạ tên là Chishti Khan, người có khuôn mặt láng mịn đến mức không ai biết ông ta mới mười chín hay đã chín mươi, và đã dựng quanh lều một kiến trúc kỳ quái bằng tre và giấy màu vụn khiến nhà ông ta trông như một bản sao thu nhỏ, nhiều màu của Thành Đỏ gần đấy. Chỉ khi đi qua cánh cổng pháo đài, người ta mới nhận ra rằng đằng sau cái mặt tiền hình cung được chế tác kỳ công gồm một dãy lô cốt và công sự bằng tre và giấy bồi ấy cũng là một căn lều xập xệ dựng bằng tôn và bìa như bao căn khác. Chishti Khan đã mắc một sai lầm căn bản khi để chuyên môn nhiễm sang đời thật; ông ta bị cả ghetto xa lánh. Giới ảo thuật đều giữ khoảng cách, sợ lây bệnh từ những giấc mơ của ông ta.
[19] Jana Sangh là một chính đảng lớn ở Ấn Độ, tồn tại trong giai đoạn 1951-1980, chủ trương truyền bá đạo Hindu, tiếng Hindi và bảo vệ bò thiêng. Ananda Marga là một chủ thuyết xã hội và tin ngưỡng ở Ấn Độ, có nguồn gốc tư tưởng xuất phát từ các triết lý Vệ Đà và Tantra.
[20] Một chính đảng theo tư tưởng tự do cổ điển ở Ấn Độ.
Có vậy quý vị mới hiểu tại sao Parvati-phù-thủy, người sở hữu ma thuật thần kỳ đích thực, phải giữ kín chuyện đó suốt đời; bí mật về biệt tài được nửa đêm ban tặng của cô không dễ dàng nhận được sự tha thứ của một cộng đồng vẫn hằng phủ nhận khả năng tồn tại của những điều như thế.
Ở góc khuất của Thánh đường Thứ Sáu, nơi vắng bóng các ảo thuật gia, còn nguy cơ duy nhất là từ những người mót-đồng-nát, kiếm-thùng-gỗ-vứt-đi hay săn-sắt-vụn... đó là nơi Parvati-phù-thủy, hăm hở như mù tạc, cho tôi thấy cô làm được những gì. Mặc một tấm shalwar-kameez khiêm nhường may từ vải vụn của cả chục tấm khác, nữ pháp sư của nửa đêm biểu diễn cho tôi với niềm nhiệt tình và háo hức của một đứa trẻ. Mắt tròn xoe, tóc đuôi ngựa vặn thừng, môi đỏ căng mọng... tôi sẽ chẳng bao giờ cưỡng lại cô lâu đến thế nếu không vì gương mặt ấy, cặp mắt cái mũi đôi môi thối rữa ghê rợn của... Ban đầu năng lực của Parvati dường như không có giới hạn. (Nhưng có đấy.) À, thế thì: yêu tinh có được triệu đến? Thần Đèn có hiện lên, hứa cho chúng tôi giàu có và chu du thế giới trên thảm bay? Ếch có hóa thành hoàng tử, và đá có biến thành ngọc quý? Có chuyện bán-rẻ-linh-hồn, và gọi người chết sống dậy? Chẳng có gì hết; ma thuật mà Parvati-phù-thủy biểu diễn cho tôi - thứ ma thuật duy nhất cô bằng lòng biểu diễn - là loại ma thuật “trắng”. Như thể cuốn Kỳ Thư của Bà la môn, Atharva Veda[21], đã tiết lộ mọi bí mật của mình cho cô; cô có thể chữa bệnh và giải độc (để chứng minh, cô cho rắn cắn mình rồi chống lại nọc độc bằng một nghi lẽ kỳ lạ, gồm có cầu thần rắn Takshasa, uống nước hòa với tinh chất của cây Krimuka và sức mạnh của quần áo cũ đã luộc chín, và niệm một câu thần chú: Garudamand, thần ưng, phục thuốc độc, nhưng vô hiệu; tương tự như thế ta chuyển hướng độc lực của nó, như chuyển hướng một mũi tên) - cô có thể chữa lành những chỗ đau và luyện bùa - cô biết luyện bùa sraktya và Nghi thức Lễ Cây[22]. Và tất cả những điều này cô đã tiết lộ với tôi, trong một chuỗi màn trình diễn về đêm phi thường, dưới những bức tường của Thánh đường - nhưng cô vẫn kém vui.
[21] Cuốn thứ tư trong bộ sách thiêng của đạo Hindu (thường gọi chung là kinh Vệ Đà), nội dung chủ yếu là y thuật và pháp thuật.
[22] Sraktya là một loại gỗ quý chuyên dùng để luyện bùa. Câu thần chú của Parvati và nghi thức Lễ Cây đều xuất xứ từ cuốn Atharva Veda.
Như mọi lần, tôi buộc phải nhận trách nhiệm: mùi hương sầu muộn vây quanh Parvati-phù-thủy là tác phẩm của tôi. Bởi vì cô đã hai mươi lăm, và cái cô muốn ở tôi không chỉ là sẵn sàng làm khán giả của cô; Chúa mới hiểu vì sao, nhưng cô muốn tôi vào giường với cô - hay, chính xác hơn, nằm cùng cô trên tấm vải bao tải là giường của cô trong túp lều xập xệ được cô chia sẻ với một gia đình ba nghệ sĩ uốn dẻo đến từ Kerala, ba cô gái cũng mồ côi như cô - và như tôi.
Những gì cô làm cho tôi: dưới sức mạnh ma thuật của cô, tóc bắt đầu mọc ở nơi chúng chưa hề mọc lại từ khi lão Zagallo kéo quá mạnh; pháp lực của cô làm hai vết bớt trên mặt tôi nhạt đi sau khi xức thuốc thảo dược chữa thương; thậm chí chân tôi cũng bớt vòng kiềng dưới sự chăm sóc của cô. (Tuy nhiên, cô hoàn toàn bất lực trước bên tai điếc của tôi; không phép thuật nào trên trái đất đủ mạnh để tẩy sạch những di sản của cha mẹ để lại.) Nhưng dẫu cô làm cho tôi bao nhiêu, tôi vẫn không thể làm cho cô cái điều cô khao khát nhất; bởi mặc dù chúng tôi nằm xuống bên nhau dưới lối đi ở mặt khuất của Thánh đường, ánh trăng vẫn soi tỏ gương mặt ban đêm của cô, hóa thành, luôn luôn hóa thành gương mặt người em gái xa cách, mất tích của tôi... không, không phải em tôi... thành gương mặt thối rữa, biến dạng gớm ghiếc của Jamila Ca sĩ. Parvati xức lên người loại dầu cao tẩm bùa yêu, cô chải tóc hàng ngàn lần bằng chiếc lược làm từ thứ xương hươu kích tình; và (tôi không hề nghi ngờ) sau lưng tôi chắc hẳn cô đã thử nghiệm đủ loại huyền thuật ái tình; nhưng tôi đã mắc phải một bùa chú cũ hơn, và, dường như, không thể bị phá giải; định mệnh buộc tôi phải thấy khuôn mặt những phụ nữ yêu tôi biến thành đường nét của... nhưng quý vị biết những đường nét rữa nát, xộc vào mũi tôi mùi hôi thối kinh hoàng ấy là của ai rồi.
“Cô bé tội nghiệp,” Padma thở dài, và tôi đồng ý; nhưng cho đến khi mụ Góa phụ hút kiệt quá khứ hiện tại tương lai khỏi tôi, tôi vẫn phải chịu đựng lời nguyền của con Khỉ.
Khi Parvati-phù-thủy rốt cuộc phải thừa nhận thất bại, gương mặt cô phát sinh, sau một đêm, một nét dằn dỗi nổi bật và đáng lo ngại. Cô thiếp đi trong túp lều của ba chị em uốn dẻo mồ côi và tỉnh dậy với cặp môi đầy đặn bĩu hẳn ra trong một vẻ hờn dỗi tràn trề nhục cảm. Ba chị em mồ côi cho cô biết, và lo lắng bảo nhau không hiểu mặt cô bị làm sao; cô nỗ lực hết sức để đưa nét mặt mình trở lại như cũ, nhưng chẳng cơ bắp hay ma thuật nào có thể giúp cô phục hồi nguyên trạng; cuối cùng, đành lòng chấp nhận bi kịch này, Parvati chịu thua, thế là Resham Bibi bảo bất kỳ ai chịu lắng nghe: “Con bé tội nghiệp - nó đã bị thần phạt khi đang làm mặt dỗi.”
(Thật tình cờ, năm ấy, chị em phụ nữ thành thị sành điệu đều làm vẻ mặt tương tự nhằm tỏ ra gợi tình; đám người mẫu kiêu kỳ ở show thời trang Eleganza năm 73 đều bĩu môi khi sải bước trên sàn catwalk. Trong cảnh bần hàn cơ cực của khu ổ chuột của giới ảo thuật, nàng Parvati-phù-thủy bĩu môi là đỉnh cao của gương mặt thời trang.)
Các ảo thuật gia dốc rất nhiều tâm sức để làm Parvati cười trở lại. Bỏ bê cả công việc lẫn nhiệm vụ nhàm chán hơn là dựng lại những túp lều tôn-và-bìa đã bị gió to giật đổ, hay diệt chuột, họ biểu diễn những tiết mục khó khăn nhất hòng làm cô đẹp ý; nhưng đôi môi vẫn không suy suyển. Resham Bibi pha trà xanh ướp long não và ép cô uống hết. Tác dụng của trà gây ra một cơn táo bón nghiêm trọng đến nỗi không ai thấy cô đi đại tiện ở sau lều suốt chín tuần liền. Hai nghệ sĩ tung hứng trẻ nảy ra suy đoán rằng có lẽ cô bắt đầu thương khóc người cha quá cố một lần nữa, và đặt ra cho mình nhiệm vụ vẽ chân dung của ông trên một mảnh vải dầu cũ rồi đem treo nó bên trên manh chiếu bao tải của cô. Ba chị em pha trò, còn Picture Singh, hết sức buồn phiền, bắt rắn hổ mang tự thắt nút; nhưng tất cả đều không ăn thua, bởi vì nếu mối tình trắc trở của Parvati nằm ngoài khả năng chữa trị của chính cô, thì người khác hy vọng gì? Áp lực từ cặp môi của Parvati đã gây ra, ở ghetto, một tâm lý bất an không thể gọi tên, mà lòng thù ghét của toàn bộ giới ảo thuật đối mặt với những điều thần bí cũng không thể xua tan đi hoàn toàn.
Thế rồi Resham Bibi nảy ra một ý. “Chúng ta dốt quá,” bà lão bảo Picture Singh, “chuyện ngay trước mũi mà chẳng nhìn ra. Con bé tội nghiệp đã hăm lăm, baba - quá lứa nhỡ thì đến nơi rồi! Nó đang ao ước một tấm chồng!” Picture Singh kinh ngạc. “Resham Bibi,” anh gật gù tán thành, “não bà chưa chết hẳn đâu.”
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian